Gợi ý bài tập về nhà: 3.1. Thí dụ về bài luận số 1. Lịch sử vang dội của dân tộc đã được tái tạo qua các tác phẩm văn chương. 1 trong số ấy là bài thơ “Phú gia về kinh” của Trần Quang Khcửa ải trình bày lòng yêu nước nồng thắm, khát vọng thái hoà thịnh trị Gợi ý. Trần Quang Khải không chỉ là một danh tướng kiệt xuất góp phần vào chiến thắng chống quân Nguyên – Mông mà còn là một nhà thơ tài hoa với nhiều tác phẩm để lại cho đời mà tiêu biểu chính là bài “Phò giá về kinh”. Bằng thể thơ Ngũ ngôn tứ tuyệt, giọng Viết 1 bài văn nêu suy nghĩ của em về cảm hứng yêu nước được thể hiện qua 2 bài thơ Nam quốc sơn hà và Tụng giá hoàn kin Sun Property truyền cảm hứng 'chinh phục thành phố sông Hàn' 12:30 16/10/2022 500 chuyên viên kinh doanh đến từ 14 đại lý chiến lược được thắp lên ngọn lửa nhiệt huyết tại sự kiện đào tạo sale mang tên Chinh phục thành phố sông Hàn ngày 13/10 tại Đà Nẵng. Đọc bài thơ ta sẽ cảm nhận được thấm thía tình yêu cũng như sự tự hào to lớn này. Trong chương trình ngữ văn lớp 7, ta sẽ bắt gặp đề bài Cảm nghĩ bài thơ “Phò giá về kinh”. Dưới đây là bài văn mẫu tham khảo. Hy vọng với bài văn mẫu này, các bạn sẽ hoàn Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd Nợ Xấu. Hướng dẫn Đề bài Phat bieu cam nghi ve bai tho Pho gia ve kinh. Anh chị hãy phát biểu cảm nghĩ về bài thơ phò giá về kinh của Nguyễn Quang Khải. Mở bài Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Trần Quang Khải 1241-1294 con trai thứ ba của vua Trần Thái Tông và ông được phong chức thượng tướng,có công rất lớn trong cuộc kháng chiến chống mông nguyên xâm là một trong những nhà thơ lớn của dân tộc có những vần thơ “sâu xa lí thú” không chỉ vậy ông còn là võ tướng kiệt xuất. Bài thơ phò giá về kinh được ông sáng tác trong hoàn cảnh ông đi đón thái thượng hoàng Trần Thánh Tông về Thăng Long,ngay sau khi chiến thắng Chương Dương,Hàm Tử và giải phóng kinh đô năm thơ được tác giả viết theo thể ngũ ngôn tứ tuyệt đường luật có cách gieo vần tương tự thất ngôn tứ tuyệt. Thân bài Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Hai câu thơ “Đoạt sáo Chương Dương độ, Hảm Tử bắt quân thù” Chương Dương là bến sông nằm ở hữu ngạn sông hồng,thuộc huyện Thường Tín tỉnh Hà thắng Chương Dương diễn ra vào tháng sáu năm Ất Dậu do chính Trần Quang Khải chỉ từ “ Hàm Tử” là một địa điểm ở tả ngạn sông hồng thuộc huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Hàm Tử diễn ra vào tháng 4 năm Ất Dậu do Trần Nhật Duật chỉ huy với sự hỗ trợ của Trần Quang Khải. Đó là những trận thủy chiến oanh liệt trên chiến tuyến sông Hàm tử diễn ra vào tháng tư khoảng hai tháng sau Trần Quang Khải đại thắng giặc ngoại xâm quân Nguyên –mông tại Chương Dương,hàng vạn tên lính bị tiêu diệt thì bị bắt làm tù ta vừa đẩy lùi được giặc ngoại xâm vừa chiếm được nhiều thuyền,vũ khí và lương thực của quân giặc. Cụm từ “Đoạt sáo” và “Cầm hồ” được đặt ở đầu mỗi câu thơ giống như nốt nhấn trong khúc ca đại thơ hào hùng oanh liệt thể hiện được khí thế hào hùng của dân tộc ta lúc bấy vua quan lại trong triều đình đến nhân dân ai cũng hả hê vui mừng vì cuộc đại thắng. Với thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt kết hợp với nhịp thơ nhanh,gấp và các động từ biểu thị tác động mạnh mẽ dứt khoát nhưđoạt,cướp lấy thể hiện nhịp thơ sôi động dồn dập của trận chiến khiến cho người đọc có thể hình dung ra được khí thế của trận chiến ấy oanh liệt biết nhường hè năm Ất Dậu là một mốc son lịch sử trọng đại trong chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta,hiện thực ấy đã truyền cảm hứng vào những vần thơ hào hùng tráng khiến bài thơ trở nên hào hùng mang đậm chất tính hùng ca. Trong đoạn thơ tác giả đã sử dụng thủ pháp nghệ thuật là liệt kê và phép đối để làm nổi bật lên hai sự kiện lịch sử mang tầm vóc chiến chiến thắng Chương Dương độ và Hàm Tử quan đã làm thay đổi cục diện trên chiến trường của dân ta từ chỗ rút lui chiến lược thành quân ta đã tiến lên phản công như vũ trận chiến quân Nguyên do Thoát Hoan cầm đầu sang xâm lược nước ta khi ấy kinh thành Thăng long chìm trong khói lửa ngút trời vận nước ta lúc bấy giờ đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc” nhưng với tài thao lược và tài cầm quân của những vị anh hùng quân ta đã lấy đoản binh chế trường trận lấy yếu đánh hai trận chiến Chương Dương và Hàm tử đã giáng xuống đầu bọn giặc phương bắc những bài học nhớ đời về tinh thần chiến đấu của dân tộc ta,kinh thành Thăng long được giải phóng. Trần quang Khải là nhà thơ đầu tiên đã để lại dấu ấn trong lịch sử cái tên Chương Dương và Hàm Tử đã in sâu vào lịch sử chống giặc ngoại xâm,lịch sử văn chương như một trang chói lọi,để viết được những vần thơ hay như vậy thì ông phải là người trong cuộc đứng ở một góc độ nào đấy hơn cả là ông ó lòng yêu thương quê hương đất nước thì ông mới có thể viết ra được những vần thơ hay như thế. Hai câu thơ tiếp Thái bình tu chí lực, Vạn cổ thử gian san. Thái bình nên gắng sức, Non nước ấy ngàn thu Hai câu thơ trên là lời của vị tướng muốn nói với dân hãy tập trung vào xây dựng phát triển non sông đất nước hòa bình và tin tưởng vào sự bền vững muôn đời của Tổ vừa từ chiến trường trở về áo còn vương mùi thuốc súng chưa kịp nghỉ ngơi ông đã nghĩ ngay đến việc trước mắt cũng như lên kế sách lâu dài cho quốc gia ông nhấn mạnh “trong thời bình mọi người cần phải dốc sức vào xây dựng non sông và phát triển đất nước,dân giàu nước mạnh thì mới đánh tan được tham vọng ngông cuồng của giặc ngoại xâm đồng thời chủ quyền độc lập mới được lâu dài”.Điều đó chứng tỏ ông vừa là một vị tướng tài ba vừa có lòng thương dân một lòng hướng tới non sông đất nước,luôn đặt trách nhiệm với dân,với nước lên hàng đầu. Kết bài Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Với hình thức diễn đạt cô đúc,dồn nén cảm xúc vào bên trong ý tưởng,bài thơ “Phò giá về kinh” đã thể hiện được hào khí chiến thắng và khát vọng thái bình thịnh trị của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần. TỪ KHÓA TÌM KIẾM Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh Cảm nghĩ của em về bài thơ Phò giá về kinh Cảm nghĩ của anh chị về bài thơ Phò giá về kinh Cam nghi ve bai tho Pho gia ve kinh Cam nghi cua em ve bai tho Pho gia ve kinh Theo Topics Cảm nghĩ cảm nghĩ về bà chiến thắng hòa bình khát vọng mùa hè phát biểu cảm nghĩ Phò giá về kinh quê hương Trần Quang Khải Dàn ý1. Mở bài Giới thiệu vài nét về tác giả Trần Quang Khải Là người "văn võ song toàn", không chỉ có công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mông - Nguyên mà còn là nhà thơ với những bài thơ đặc sắc Giới thiệu vài nét về Phò giá về kinh Tụng giá hòa kinh sư và nêu vấn đề cần nghị luận Tinh thần yêu nước2. Thân bàiHai câu thơ đầuTinh thần yêu nước thể hiện trong niềm vui, niềm tự hào ngây ngất khi tác giả cất lên bài ca chiến thắng "Đoạt sáo... Hàm Tử quan" Chương Dương... quân thù => Lời thông báo, tổng kết về chiến thắng cô đọng, hàm súc, đó cũng chính là bài ca của lòng yêu nước được thử thách trong khói lửa chiến tranhHai câu thơ sau Tinh thần yêu nước biểu hiện qua khát vọng và cái nhìn hướng tới tương lai "Thái bình... giang san" Thái bình... ngàn thu=> Ý thơ hào hùng, biểu hiện của lòng yêu quê hương đất nước, khát vọng cao cả, trí tuệ, sự sáng suốt của vị tướng tài ba=> Bộc lộ niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng3. Kết bài Khẳng định lại nội dung tư tưởng tác phẩm. Nêu suy nghĩ, đánh giá của bản thân. Bài làmThượng tướng thái sư Trần Quang Khải 1241-1294, con trai thứ ba của vua Trần Thánh Tông, không những là một danh tướng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ đã in dấu ấn trong văn chương dân tộc. Trần Quang Khải làm thơ không nhiều, nhưng chỉ cần một bài như Phò giá về kinh Tụng giá hoàn kinh sư cũng đủ để thành một tên tuổi. Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, giữa không khí hào hùng, ngây ngất men say của vinh quang chiến thắng. Và tác giả của nó, một vị tướng lỗi lạc, mà tên tuổi đã từng phải 10 phen khiến quân thù phải kinh hồn bạt vía, người vừa lập công lớn trong chiến trận, nay kiêu hãnh giữ trọng trách phò giá hai vua về kinh đô trong khúc khải hoàn ca của dân tộc. Tức cảnh sinh tình. Trong hào quang của chiến thắng, tâm hồn vị tướng- nhà thơ của chúng ta bỗng dạt dào cảm hứng thi ca, kết tinh thành những vần thơ thật đẹpChương Dương cướp giáo giặc,Hàm tử bắt quân bình nên gắng nước ấy ngàn thu.Trần Trọng Kim dịch Dường như sự xúc động quá lớn về niềm vui chiến thắng khiến nhà thơ không nói được nhiều. Bao nhiêu cảm xúc, suy tư dồn nên cả lại vào bốn dòng ngũ ngôn tứ tuyệt gân guốc, chắc nịch. Hai câu mở đầu nóng bỏng hơi thở chiến trận và đậm chất anh hùng caChương Dương cướp giáo giặc,Hàm Tử bắt quân thù. Chương Dương và Hàm Tử là hai chiến thắng lẫy lừng của Đại Việt trong cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân xâm lược Mông Cổ năm 1285. Đối với quân dân nhà Trần lúc đó, chỉ cần nhắc đến cái tên Chương Dương-Hàm Tử cũng đã đủ thấy nức lòng. Đặc biệt, đối với thượng tướng Trần Quang Khải, người trực tiếp chỉ huy và lập nên chiến công trong trận Chương Dương, cũng là người góp phần hỗ trợ đắc lực cho Trần Nhật Duật đánh trận Hàm Tử, thì càng thêm xao xuyến, bồi hồi. Tác giả không tả lại cảnh khói lửa binh đao, cũng không tả lại cảnh quyết chiến của quân ta, mà chỉ kể lại theo cách liệt kê sự kiện, nhưng vẫn làm sống dậy cả một không khí trận mạc hào hùng bởi tiếng gươm khua, ngựa hí, tiếng binh khí, và cả tiếng thét tiến công vang dội. Sức gợi cảm của cách nói giản dị mà cương quyết, rắn rỏi là ở đó. Nên như mạch cảm xúc của hai câu đầu hướng về chiến trận, về hào quang chiến thắng, thì ở hai câu sau, mạch cảm xúc lại mở ra một hướng khácThái bình nên gắng sức,Non nước ấy ngàn thu. Vẫn với hai câu thơ ngắn gọn, chắc nịch mà lại chất chứa cảm xúc, tâm trạng và bao nỗi niềm suy tư. Vị tướng thắng trận mới đang trên đường trở về kinh đô, chưa kịp nghỉ ngơi chứ đừng nói tới việc hưởng thụ chiến công, đã lo nghĩ cho đất nước, những mong một nền thái bình muôn thuở cho ngàn đời con cháu mai sau. Thật cảm động và đáng kính phục! Tuy nhiên, Trần Quang Khải cảm nhận sâu sắc nền thái bình ấy đâu phải cứ mong là có. Để có nó, cần có sự chung lòng, chung sức, với bao tâm huyết tu trí lực của triều đình và trăm họ, trong đó có sự gắng sức của chính bản thân ông. Niềm mong mỏi của nhà thơ chính là khát vọng của cả một dân tộc, của muôn triệu trái tim Đại Việt xưa và nay. Vì thế hai câu kết với cảm hứng hoà bình đậm chất nhân văn đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp mới, lấp lánh đến muôn đời. Dường như sự xúc động quá lớn về niềm vui chiến thắng khiến nhà thơ không nói được nhiều. Bao nhiêu cảm xúc, suy tư dồn nên cả lại vào bốn dòng ngũ ngôn tứ tuyệt gân guốc, chắc đang xem Cảm nghĩ bài phó giá về kinh Dàn ý 1. Mở bài- Giới thiệu vài nét về tác giả Trần Quang Khải Là người "văn võ song toàn", không chỉ có công lớn trong công cuộc đánh đuổi quân Mông - Nguyên mà còn là nhà thơ với những bài thơ đặc sắc- Giới thiệu vài nét về Phò giá về kinh Tụng giá hòa kinh sư và nêu vấn đề cần nghị luận Tinh thần yêu nước2. Thân bàia. Hai câu thơ đầu* Tinh thần yêu nước thể hiện trong niềm vui, niềm tự hào ngây ngất khi tác giả cất lên bài ca chiến thắng "Đoạt sáo... Hàm Tử quan" Chương Dương... quân thù - "đoạt sáo", "cầm Hồ" Hai cụm động từ mạnh mẽ, dứt khoát thể hiện hào khí nhà Trần và chiến thắng như chẻ tre của quân ta- Nhịp điệu câu thơ nhanh, dồn dập như mệnh lệnh trong quân đội- Phép liệt kê hai trận thắng, hai địa danh vinh quang => Lời thông báo, tổng kết về chiến thắng cô đọng, hàm súc, đó cũng chính là bài ca của lòng yêu nước được thử thách trong khói lửa chiến tranhb. Hai câu thơ sau* Tinh thần yêu nước biểu hiện qua khát vọng và cái nhìn hướng tới tương lai "Thái bình... giang san" Thái bình... ngàn thu- Nhịp thơ khoan thai như lời nhắn nhủ Cần bắt tay vào xây dựng cơ đồ, bồi đắp non sông để mãi vững bền đến nghìn thu- "thái bình" vốn là mơ ước của bao người khi kẻ thù xâm lược chiếm đoạt đất đai quê nhà, nay mơ ước thái bình đã thành hiện thực, ta cần "tu trí lực" để làm cho "Vạn cổ thử giang san"=> Ý thơ hào hùng, biểu hiện của lòng yêu quê hương đất nước, khát vọng cao cả, trí tuệ, sự sáng suốt của vị tướng tài ba=> Bộc lộ niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi sáng3. Kết bài- Khẳng định lại nội dung tư tưởng tác Nêu suy nghĩ, đánh giá của bản thân. Bài mẫu Thượng tướng thái sư Trần Quang Khải 1241-1294, con trai thứ ba của vua Trần Thánh Tông, không những là một danh tướng kiệt xuất mà còn là một nhà thơ đã in dấu ấn trong văn chương dân tộc. Trần Quang Khải làm thơ không nhiều, nhưng chỉ cần một bài như Phò giá về kinh Tụng giá hoàn kinh sư cũng đủ để thành một tên tuổi. Bài thơ ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, giữa không khí hào hùng, ngây ngất men say của vinh quang chiến thắng. Và tác giả của nó, một vị tướng lỗi lạc, mà tên tuổi đã từng phải 10 phen khiến quân thù phải kinh hồn bạt vía, người vừa lập công lớn trong chiến trận, nay kiêu hãnh giữ trọng trách phò giá hai vua về kinh đô trong khúc khải hoàn ca của dân tộc. Tức cảnh sinh tình. Trong hào quang của chiến thắng, tâm hồn vị tướng- nhà thơ của chúng ta bỗng dạt dào cảm hứng thi ca, kết tinh thành những vần thơ thật đẹpChương Dương cướp giáo giặc,Hàm tử bắt quân bình nên gắng nước ấy ngàn thu.Trần Trọng Kim dịch Dường như sự xúc động quá lớn về niềm vui chiến thắng khiến nhà thơ không nói được nhiều. Bao nhiêu cảm xúc, suy tư dồn nên cả lại vào bốn dòng ngũ ngôn tứ tuyệt gân guốc, chắc nịch. Hai câu mở đầu nóng bỏng hơi thở chiến trận và đậm chất anh hùng caChương Dương cướp giáo giặc,Hàm Tử bắt quân thù. Chương Dương và Hàm Tử là hai chiến thắng lẫy lừng của Đại Việt trong cuộc kháng chiến vĩ đại chống quân xâm lược Mông Cổ năm 1285. Đối với quân dân nhà Trần lúc đó, chỉ cần nhắc đến cái tên Chương Dương-Hàm Tử cũng đã đủ thấy nức lòng. Đặc biệt, đối với thượng tướng Trần Quang Khải, người trực tiếp chỉ huy và lập nên chiến công trong trận Chương Dương, cũng là người góp phần hỗ trợ đắc lực cho Trần Nhật Duật đánh trận Hàm Tử, thì càng thêm xao xuyến, bồi hồi. Tác giả không tả lại cảnh khói lửa binh đao, cũng không tả lại cảnh quyết chiến của quân ta, mà chỉ kể lại theo cách liệt kê sự kiện, nhưng vẫn làm sống dậy cả một không khí trận mạc hào hùng bởi tiếng gươm khua, ngựa hí, tiếng binh khí, và cả tiếng thét tiến công vang dội. Sức gợi cảm của cách nói giản dị mà cương quyết, rắn rỏi là ở đó. Nên như mạch cảm xúc của hai câu đầu hướng về chiến trận, về hào quang chiến thắng, thì ở hai câu sau, mạch cảm xúc lại mở ra một hướng khácThái bình nên gắng sức,Non nước ấy ngàn thu. Vẫn với hai câu thơ ngắn gọn, chắc nịch mà lại chất chứa cảm xúc, tâm trạng và bao nỗi niềm suy tư. Vị tướng thắng trận mới đang trên đường trở về kinh đô, chưa kịp nghỉ ngơi chứ đừng nói tới việc hưởng thụ chiến công, đã lo nghĩ cho đất nước, những mong một nền thái bình muôn thuở cho ngàn đời con cháu mai sau. Thật cảm động và đáng kính phục! Tuy nhiên, Trần Quang Khải cảm nhận sâu sắc nền thái bình ấy đâu phải cứ mong là có. Để có nó, cần có sự chung lòng, chung sức, với bao tâm huyết tu trí lực của triều đình và trăm họ, trong đó có sự gắng sức của chính bản thân thêm Top 5 Phần Mềm Gõ 10 Ngón Cho Trẻ Em Miễn Phí, Tốt Nhất 2021 Niềm mong mỏi của nhà thơ chính là khát vọng của cả một dân tộc, của muôn triệu trái tim Đại Việt xưa và nay. Vì thế hai câu kết với cảm hứng hoà bình đậm chất nhân văn đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp mới, lấp lánh đến muôn đời. Cảm nhận bài thơ “Phò giá về kinh” của Trần Quang Khải Mở bài Trần Quang Khải là vị dũng tướng có công công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông-Nguyên xâm lược. Bài thơ PHÒ GIÁ VỀ KINH Tụng giá hoàn kinh sư là một trong những bài thơ xuất sắc, hiếm hoi còn để lại của Trần Quang Khải và của nền thi ca Lý-Trần Thân bài Đây là bài thơ ra đời trong giai đoạn lịch sử dân tộc thoát khỏi ách đô hộ ngàn năm của phong kiến phương Bắc đang trên đường vừa bảo vệ vừa củng cố, xây dựng một quốc gia tự chủ rất mực hào hùng. Đặc biệt bài thơ nhắc lại hai chiến thắng vang dội của quân và dân ta đời Trần năm 1285 tại bến Chương Dương và cửa Hàm Tử dưới sự chỉ huy của Thái sư Trần Quang khải góp phần xoay chuyển thế trận, tạo điều kiện cho ông hộ giá đưa vua Trần Nhân Tông về lại kinh thành Thăng Long Bài thơ được viết khi Trần Quang Khải đi đón hai vua Trần Thái thượng hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông về Thăng Long ngay sau khi chiến thắng Hàm Tử, Chương Dương và giải phóng kinh đô 1285. Bài thơ ca ngợi hào khí chiến thắng oanh liệt của quân dân đời Trần, hào khí Đông A, khẳng định quyết tâm và khát vọng xây dựng nền thái bình muôn đời cho đất nước. “Tụng giá hoàn kinh sư” là bài thơ của một vị chủ tướng nói về những chiến công của quân và dân ta đã đạt được trong hai cuộc kháng chiến. Mà ông là người cũng có những đóng góp không nhỏ để lập nên những chiến công lớn lao, hiển hách đó. Hai câu thơ đầu bài thơ tập trung khắc hoạ nhũng chiến công lùng lẫy của quân ta Đoạt sóc Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Hai câu thơ đầu nhịp thơ khẩn trương, mạnh mẽ, chỉ có vẻn vẹn mười chữ nhưng lượng thông tin nén trong chúng chật ắp. Những động từ mạnh được đảo lên dầu câu thơ.’ đoạt, cầm đã diễn tả một cách sinh động thế chủ động áp đảo, đầy uy lực của quân đội nhà Trần trước kẻ thù. Trong cái thế vũ bão của quân dân ta, hình ảnh kẻ thù trờ nên bạc nhược, đáng khinh Hổ cách dùng của người Trung Quốc với thái độ khinh miệt. Hai câu thơ ngắn gọn đó có tói 4 tiếng nói về hai địa danh Chương Dương và Hàm Tử. Đó là những địa danh hào hùng gắn với những chiến công giòn giã làm đảo ngược tình thế. Mới ngày nào, hơn 50 vạn quân do Thoát Hoan cẩm đầu tràn sang như sóng dữ hòng nuốt chửng Đại Việt. Giặc từ hai phía kẹp lại như gọng kìm, từ Nam Quan đánh xuống, từ Chiêm Thành đánh ra. Vận nước như ngàn cân treo sợi tóc. Quân ta phải rút lui chiến lược. Nhưng sự đồng lòng của vua tôi nhà Trần, tài thao lược của các tướng sĩ đã làm thay đổi cục diện chiến trường. Tháng 4 năm Ất Dậu 1285, rồi tháng 6 năm đó, quân ta liên tiếp giáng đòn sấm sét xuống đầu quần giặc. Chiến công nối tiếp chiến công, niềm hân hoan chiến thắng vang lừng non sông. Trước mắt ta như hiện ra hình ảnh của đoàn quân tràn đầy khí thế, bước hành quân rầm rập, tung bừng ngọn cờ khải hoàn Ba quán hùng khí át sao Ngưu Phạm Ngũ Lão, Tỏ lòng. Câu thơ của Trần Quang Khải như một trang kí sự chân thực, hào hùng. Điều đặc biệt là tác giả không liệt kê các chiến thắng theo trình tự thời gian mà ông đã nhắc tới chiến thắng Chương Dương trước, Hàm Tử sau. Trong lúc này tác giả và quân dân đời Trần đang sống trong không khí chiến thắng Chương Dương đang diễn ra. Từ niềm vui đó mới sống lại chiến thắng Hàm Tử trước khoảng hai tháng vì thế mà chiến tháng Chương Dương sau nhưng được ca ngợi trước. Hai địa danh này trở thành hai chiến công rực rỡ ở đời nhà Trần. Có lẽ không chi bởi trận Chương Dương có tính chất quyết định để giải phóng kinh đô mà còn bởi chiến thắng ấy vừa mới diễn ra, tính thời sự nóng hổi. Hơi thở của hào khí Đông A còn vang dội, niềm hân hoan, phấn khởi như đang truyền đến từng người. Ẩn sau cách kể khách quan của tác giả phải chăng còn là niềm tự hào và chút phấn chấn của riêng Trần Quang Khải khi chính ông góp sức vào sự nghiệp bảo vệ đất nước trước họa xâm lăng ? Hai câu thơ cuối thể hiện khát vọng hòa bình như một lời động viên xây dựng, phát triển đất nước với niềm tin sắt đá vào sự bền vững muôn đời của đất nước Thái bình tu nỗ lực, Vạn cổ thử gian san. Đất nước đã sạch bóng quăn thù, nền thái bình đang mở ra một tương lai tươi sáng hơn cho dân tộc, nhưng tác giả vẫn không quên nhắc nhở về nhiệm vụ trước mắt và cũng là nhiệm vụ lâu dài Thái bình tu trí lực. Tu trí lực nghĩa gắng sức đem tài trì, đem sức người, sức của ra xây dựng lại đất nước ngày càng vững mạnh. Theo nhà thơ, sự bền vững và thịnh trị của dân tộc không phải tự nhiên mà có, mà nó là kết quả phấn đấu không ngừng của toàn thể nhân dân. Điều này bộc lộ tầm nhìn xa trông rộng của một nhà chiến lược lớn Trần Quang Khải. Ông đã không “ngủ quên” trong chiến thắng mà chính lòng tự hào về những chiến công đạt được ngày hôm nay đã thôi thúc ý chí, quyết tâm xây dựng đất nước ngày càng vững mạnh. Lời thơ của Trần Quang Khải nhắn nhủ tới mỗi chúng ta bài học cảnh giác hết sức sáu sắc. Không những thế lời thơ còn là lời khích lê, động viên, lời truyền gửi tới mỗi chúng ta niềm tin vào sức mạnh tự cường sẽ xây dựng “non sông nghìn thuở vững âu vàng” Trần Nhân Tông, Tức sự. Phải là người rất thông minh, tài hoa và có tấm lòng yêu nước thương dân cao cả, Trần Quang Khải mới viết nên những vần thơ sâu xa, lí thú đến như vậy. Bài thơ mang tính thời sự nóng hổi nhưng lại mang ý nghĩa lâu bền bởi bài thơ không chỉ chứa dựng hào khí chiến đấu và khát vọng hoà bình của cha ống ta dời nhà Trần, mà đó cũng là hào khí và khát vọng muôn đời của dân tộc ta trong mọi thời đại. Ý tưởng và suy nghĩ đó xuất phát từ đáy lòng, từ trái tim yêu nước và hùng khí của một nhà quý tộc tôn thất, vị tướng lĩnh tài ba, một nhà ngoại giao, một nhà chính trị xuất sắc đầu đời Trần. Phò giá về kinh biểu đạt ý tưởng lớn lao, rõ ràng theo kiểu nói cô đúc, giọng chắc nịch, không văn hoa. Cảm xúc trữ tình được ẩn chứa bên trong ý tưởng. Bài thơ được đánh giá là “khúc ca khải hoàn” ca ngợi hào khí chiến thắng oanh liệt của quân dân đời Trần trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên. Bài thơ dử dụng các động từ mạnh trong việc miêu tả hai chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử. Câu trên đối xứng với câu dưới về thanh, nhịp, ý. Giọng điệu, âm hưởng thơ hùng hồn, mạnh mẽ phản ánh chân thực hào khí Đông A. Kết bài Bài thơ bộc lộ niềm sảng khoái của người chiến thắng, thể hiện hào khí Đông A của thời đại nhưng lại không mang niềm vui an lạc. Vị chiến tướng chưa kịp nghĩ ngơi đã lo đến nhiệm vụ trước mắt cũng là kế sách lâu dài cho vương triều, cho đất nước. Bài thơ chỉ có hai mươi chữ nhưng đã vừa bô’ cáo được thành quả thời kỳ chiến tranh giữ nước lại vừa đặt ra nhiệm vụ trong hòa bình. Trần Quang Khải là một chiến tướng đồng thời là một nhà chiến lược”. III. LUYỆN TẬP Câu 1 Trả lời ngắn gọn. + Bài thơ “Phò giá về kinh” viết theo thề thơ nào? + Bài thơ tái hiện chiến thắng nào trong lịch sử dân tộc? + Bài thơ “Phò giá về kinh” được đánh giá là gì? + Tình cảm và thái độ của tác giả được thể hiện trong bài thơ là gì? + Biện pháp nghệ thuật nào đã dược sử dụng trong hai câu thơ đầu bài thơ? Câu 2 Cách đưa tin chiến thắng trong hai câu thơ đầu bài thơ có gì đặc biệt? Tại sao tác giả lại sử dụng cách đó? Câu 3 Hai câu thơ cuối, tác giả đã gửi gắm điều gì? Qua đó, em nhận xét gì về tầm tư tưởng của nhà thơ? Câu 4 Hào khí Đông A được thể hiện như thế nào qua bài tha Tụng giá hoàn kinh sư? Câu 5 Điểm giống và khác nhau giữa bài thơ “Sông núi nước Nam” và “Phò giá về kinh”. Giống nhau – Đều diễn đạt ý tưởng và cách nói chắc nịch, cô đúc trong đó ý tưởng và cảm xúc hoà làm một. – Đều thể hiện bản lĩnh khí phách hào hùng của dân tộc ta. Một bài là nêu cao chân lí vĩnh viễn, thiêng liêng Nước Việt Nam là của người Việt Nam, kẻ thù xâm phạm tất sẽ bị bại vong. Một bài là thể hiện khí phách hào hùng dân tộc, khát vọng xây dựng và phát triển cuộc sống hoà bình, niềm tin vào sự bền vững muôn đời của đất nước. Khác nhau Bài 1 viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài 2 viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt. Cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh - Hướng dẫn lập dàn ý và bài văn mẫu tham khảo phát biểu cảm nghĩ về tác phẩm Phò giá về kinh của Trần Quang biểu cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinhLập dàn ý1. Mở bài- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm- Trần Quang Khải 1241-1294, một vị danh tướng tài ba đời Trần, một nhà thơ lớn của dân tộc, các sáng tác của ông thường hàm xúc, ý nghĩa và để lại giá trị vô cùng to lớn trong nền thơ ca dân tộc. Phò giá về kinh chính là một trong những bài thơ đặc sắc trong kho tàng thơ ca của Trần Quang Khải. Bài thơ được sáng tác trong lúc vua và quân dân nhà Trần giành chiến thắng lấy lại được kinh thành Thăng Long và trên đường trở về kinh đô.– Bài thơ được Trần Quang Khải viết theo thể thơ ngũ ngôn tứ tuyệt với lời thơ giản dị, nhưng đầy hàm xúc ý nghĩa bằng chữ Hán, bản dịch của Trần Trọng Kim được nhiều người biết đến Thân bài– Hai câu thơ đầu+ Cảm xúc chiến thắng trước một đội quân giặc ngoại xâm được đánh giá là vô cùng hung hãn khiến cho Trần Quang Khải không khỏi xúc động, không miêu tả quá dài dòng, chỉ bốn câu thơ thôi cũng đã đúc kết được sự tự hào và tâm tư của vị tướng kiệt xuất.+ Hai câu thơ đầu và hai chiến thắng lẫy lừng chấn động đất trời, để đánh dấu trong việc đánh tan giặc Nguyên đó là chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử vào năm 1285.+ Đối với tình hình quân và dân nhà Trần lúc bấy giờ, chỉ nghe đến cái tên Chương Dương thôi cũng đã vô cùng tự hào và cảm phục trước ý chí chiến đấu của quân ta dưới sự chỉ huy vô cùng sáng suốt của danh tướng Trần Quang Khải.+ Mặc dù không miêu tả lại cảnh chiến tranh với gươm đao, với sự ác liệt của cuộc chiến mà tác giả chỉ kể lại các sự kiện, nhưng vẫn đưa người đọc như đang sống giữa cuộc chiến, sống giữa khi thế hào hùng và cảm giác giác chiến thắng, khải hoàn đầy khí thế của vua và dân nhà Trần.=> Chiến thắng Chương Dương ta đã đánh bại được quân thù đến trận Hàm Tử ta đã bắt sống được cả tướng giặc, chính điều này đã chứng minh được tuy rằng từ ngữ giản dị nhưng vô cùng mạnh mẽ rắn rỏi.– Hai câu thơ cuối+ Trần Quang Khải muốn gửi đến toàn dân tộc một điều rằng nền thái bình đó chỉ được tạo ra khi mà toàn thể dân tộc đồng lòng, đoàn kết dồn hết lòng dựng xây và bảo vệ đất nước mà thôi.+ Với hai câu thơ vô cùng ngắn gọn nhưng súc tích, chất chứa nhiều xúc cảm và tâm tư của nhà thơ.+ Trần Quang Khải không đắm chìm trong chiến thắng ông đã có những lo nghĩ cho tương lai đất nước, ông muốn cuộc sống hòa bình, đất nước còn tồn tại và lưu danh đến muôn đời sau “Non nước ấy ngàn thu”.=> Nhưng nền thái bình đâu phải tự dưng mà có được, nó cần được sự đồng lòng, đồng sức, đoàn kết với lòng tự hào và lòng tự hào đất nước nồng nàn, đấy chính là nỗi niềm của Trần Quang Kết bài- Bài thơ với lời thơ ngắn gọn nhẹ nhàng, câu từ gần gũi không khoa trương phóng đại đã đem đến cho người đọc về một tinh thần dân tộc vô cùng hào hùng và chiến thắng vẻ vang oanh liệt, giá trị của bài thơ vẫn còn vang vọng cho đến bây giờ, đây chính là kim chỉ nam để mỗi chúng ta cần tu dưỡng tài năng đạo đức cống hiến cho đất nước.>>> Xem thêm Hướng dẫn soạn bài Phò giá về kinhTop 2 bài văn hay trình bày cảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinhCảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh - Bài mẫu 1Trần Quang Khải 1241 - 1294 là con thứ ba của vua Trần Thánh Tông. Ông được phong chức thượng tướng vì có công rất lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông 1284 - 1287 và là một trong những anh hùng đã đem tài thao lược làm nên chiến công Chương Dương, Hàm Tử lừng lẫy muôn đời. Trần Quang Khải không chỉ là một võ tướng kiệt xuất mà còn là một thi sĩ tài thơ Phò giá về kinh Tụng giá hoàn kinh sư được sáng tác trong hoàn cảnh thượng tướng cùng đoàn tùy tùng đi đón hai vua Trần vua cha Trần Thánh Tông và vua con Trần Nhân Tông về Thăng Long sau khi kinh đô được giải phóng. Hình thức bài thơ tuy ngắn gọn, cô đúc nhưng đã thể hiện được hào khí chiến thắng và khát vọng lớn lao của dân tộc ta ở thời đại nhà Trần. Tác giả đã ghi lại hai chiến công vang dội của quân và dân Đại Việt vào xuân - hè năm Ất Dậu sáo Chương Dương độ, Cầm Hồ Hàm Tử quan. Chương Dương cướp giáo giặcHàm Tử bắt quân thù.Chương Dương là bến sông nằm ở phía hữu ngạn sông Hồng, thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông cũ, nay là Hà Nội. Chiến thắng Chương Dương diễn ra vào tháng 6 năm Ất Dậu 1285 do Trần Quang Khải trực tiếp chỉ huy. Hàm Tử là địa danh ở tả ngạn sông Hồng, thuộc huyện Khoái Châu tỉnh Hưng Yên. Chiến thắng Hàm Tử vào tháng 4 cùng năm do tướng Trần Nhật Duật lãnh đạo cùng với sự hỗ trợ đắc lực của Trần Quang là những trận thủy chiến dữ dội nổ ra tren chiến tuyến sông Hồng. Trận Hàm Tử diễn ra vào tháng 4, tướng Trần Nhật Duật chém được Toa Đô. Hai tháng sau, Trần Quang Khải đại thắng giặc Nguyên - Mông tại Chương Dương. Hàng vạn tên lính xâm lược bị tiêu diệt, hoặc bị bắt làm tù binh. Quân ta chiếm được nhiều chiến thuyền, vũ khí và lương thảo của cụm từ Đoạt sáo cướp giáo và Cầm Hồ bắt giặc được đặt ở đầu mỗi câu thơ giống như những nốt nhấn trong khúc ca đại thắng. Giọng thơ sảng khoái, hào hùng, phản ánh khí thế bừng bừng của dân tộc ta thời ấy. Từ vua quan, tướng sĩ đến dân chúng ai cũng hả hê, sung sướng, tự câu thơ ngũ ngôn tứ tuyệt với nhịp thơ nhanh, gấp và các động từ biểu thị động tác mạnh mẽ, dứt khoát đoạt cướp lấy; cầm bắt thể hiện nhịp độ dồn dập, sôi động, quyết liệt của chiến trận. Tác giả không nói nhiều về những chiến công và cũng không tỏ ra say sưa với chiến thắng nhưng ta vẫn có thể cảm nhận được niềm phấn khởi, kiêu hãnh vô bờ toát lên từ âm hưởng của bài hè năm Ất Dậu là một mốc son trọng đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Hiện thực sôi động đã truyền cảm hứng vào những vần thơ hùng tráng khiến bài thơ mang đậm phong vị anh hùng thơ đã sử dụng thủ pháp liệt kê và phép đói để làm nổi bật hai sự kiện lịch sử mang tầm chiến lược. Chiến thắng Chương Dương diễn ra sau nhưng lại được nói đến trước là do nhà thơ đang sống trong không khí hào hùng của chiến thắng Chương Dương vừa diễn ra. Kế đó, nhà thơ làm sống lại không khí sôi động của chiến thắng Hàm Tử trước đó chưa chiến công Chương Dương độ và Hàm Tử quan đã làm thay đổi cục diện thế trận của quân ta. Từ chỗ rút lui theo chiến lược, quân ta đã tiến lên phản công như vũ bão. Mới ngày nào, 50 vạn quân Nguyên do tướng Thoát Hoan cầm đầu ồ ạt sang cướp phá nước ta. Kinh thành Thăng Long chìm trong khói lửa ngút trời. Hai mũi tấn công của giặc từ Nam Quan đánh xuống, từ Chiêm Thành đánh ra, kẹp lại như hai gọng kìm sắt. Vận nước lúc đó như "chỉ mành treo chuông" nhưng với tài thao lược của các vị danh tướng, quân ta đã lấy đoản binh chế trường trận, lấy yếu đánh mạnh. Với chiến thắng Chương Dương và Hàm Tử, quân ta đã giáng sấm sét xuống đầu lũ giặc phương Bắc hung hăng, ngạo mạn. Kinh thành Thăng Long được giải phóng. Quân xâm lược đã bị quét sạch ra khỏi bờ cõi nước Quang Khải là nhà thơ đầu tiên đã đưa địa danh sông núi Đại Việt thân yêu vào thơ ca. Cái tên Chương Dương và Hàm Tử đã in đậm vào lịch sử chống ngoại xâm, vào lịch sử văn chương như một dấu son chói lọi. Phải là người trong cuộc, tha thiết yêu non sông gấm vóc của đất nước mình, Trần Quang Khải mới viết được những câu thơ hào hùng đến thế!Hai câu thơ sauThái bình tu nỗ lực,Vạn cổ thử giang san. Thái bình nên gắng sức,Non nước ấy ngàn thu.Đây là lời vị thượng tướng động viên dân chúng hãy bắt tay ngay vào công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong hòa bình và tin tưởng sắt đá vào sự bền vững muôn đời của Tổ tướng Trần Quang Khải vừa từ chiến trường trở về, áo bào còn vương khói súng, chưa kịp nghỉ ngơi đã lo ngay đến nhiệm vụ trước mắt cũng như kế sách lâu dài cho quốc gia, dân tộc. Ông nhấn mạnh Trong thời bình, mọi người cần phải dốc hết sức lực để xây dựng non sông. Nước mạnh, dân giàu thì mới đánh tan được tham vọng ngông cuồng của giặc ngoại xâm, đồng thời chủ quyền độc lập mới được giữ gìn lâu dài. Điều đó chứng tỏ Trần quang Khải vừa là một chiến tướng, vừa là một vị đại thần có tài kinh bang tế thế, luôn đặt trách nhiệm với dân, với nước lên hàng ngữ bài thơ Phò giá về kinh rất giản dị nhưng ý tưởng chứa đựng bên trong thật lớn lao. Khi Tổ quốc đứng trước họa xâm lăng thì vua tôi đồng lòng, anh em hòa thuận, cả nước góp sức Trần Quốc Tuấn. Trong hòa bình, từ vua quan đến tướng sĩ, từ vương hầu đến chúng dân, ai ai cũng phải tu trí lực để đất nước Đại Việt được trường tồn. Câu thơ hàm chứa một tư tưởng vĩ đại, cho thấy tầm nhìn xa rộng và sáng suốt của Trần Quang bài thơ ra đời cách đây gần tám trăm năm nhưng cho đến nay ý nghĩa của nó vẫn còn nguyên vẹn. Bài học rút ra từ bài thơ là nếu chúng ta không chăm lo xây dựng đất nước hùng mạnh, dân trí mở mang thì làm sao chống lại được ý đồ xâm lược, đồng hóa của các thế lực phản động nước ngoài đang rình rập, nhòm ngó đất nước ta?!Tương tự bài Sông núi nước Nam, bài thơ Phò giá về kinh cũng thể hiện lòng yêu nước theo kiểu mộc mạc, tự nhiên nhưng mạnh mẽ, hào hùng. Hai bài thơ đều phản ánh bản kĩnh vững vàng, khí phách hiên nagng của dân tộc ta. Một bài nêu cao chủ quyền độc lập thiêng liêng, khẳng định nước Nam là của vua Nam, không kẻ nào được phép xâm phạm, nếu cố tình xâm phạm tất sẽ chuốc lấy bại vong. Một bài thể hiện khí thế hào hùng và bày tỏ khát vọng xây dựng, phát triển đất nước trong hòa bình với niềm tin đất nước sẽ bền vững nghìn Phò giá về kinh của Trần Quang Khải là một kiệt tác trong thơ văn cổ. Ý thơ hàm súc, cô đọng; ngôn ngữ thơ giản dị, gợi cảm. Bài thơ thể hiện niềm tự hào to lớn về sức mạnh chiến thắng của dân tộc ta và làm sống lại những năm tháng hào hùng đánh đuổi quân xâm lược Nguyên - Mông. Đồng thời nó nhắc nhở mỗi người Việt Nam phải biết nâng cao ý thức trách nhiệm công dân trong việc bảo vệ và xây dựng đất nước thanh bình, giàu đẹp, bền vững muôn tích bài thơ Phò giá về kinhCảm nghĩ về bài thơ Phò giá về kinh - Bài mẫu 2Việt nam là đất nước có lịch sử dân tộc đáng tự hào. Trải qua biết bao thăng trầm trong lịch sử, đã có những lúc đất nước ta bị xâm lược, đô hộ cả ngàn năm. Thế nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì toàn dân tộc Việt Nam vẫn mang ý chí mạnh mẽ, quyết tâm không bao giờ chịu làm nô lệ của kẻ khác. Và trong lịch sử đầy chói lọi ấy, “phò giá về kinh” tụng giá hoàn kinh sư của thượng tướng Trần Quang Khải hiện lên như một viên ngọc sáng - là khúc ca khải hoàn đầu tiên của dân tộc. Đây là bài thơ đầu tiên trong lịch sử được sáng tác ra để nói lên ý chí tự hào dân tộc Việt Nam trong cuộc chiến đấu tranh và đã giành được thắng lợi trước quân Mông Nguyên.“Phò giá về kinh” được sáng tác trong hoàn cảnh tướng Trần Quang Khải được vinh dự phò giá nhà vua để trở về kinh thành sau kế hoạch “vườn không nhà trống“ của vua tôi nhà Trần chống lại quân xâm lược. Mở đầu bài thơ hai câu thơ nói lên thắng lợi hùng tráng của quân dân ta trong chiến đấu với quân xâm sáo chương dương độCầm Hồ Hàm Tử quanHayChương Dương cướp giáo giặcHàm Tử bắt quân thùMở đầu là hình ảnh của những địa điểm diễn ra những trận đánh lớn mà tại đó, quân và dân ta đã đạt được những thắng lợi vang dội. Tại sao lại là hai địa điểm Chương Dương và hàm Tử. Để giải thích điều này, chúng ta hãy cùng nhau quay lại lịch sử của dân tộc. Trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Nguyên đời Trần, quân và dân ta đã giành được rất nhiều thắng lợi trong nhiều chiến dịch, nổi bật nhất trong số đó là trận chiến trên sông bạch Đằng. thế nhưng tướng Trần Quang Khải lại nhắc tới trận Chương Dương và hàm Tử trước. Bởi lẽ, đây là hai trận chiến cuối cùng mang tính quyết định chiến thắng toàn bộ quân xâm lược. Trước đó, để đánh lừa quân địch, toàn bộ kinh thành đã phải sơ tán đi tới khu vực nông thôn theo kế sách “vườn không nhà trống”. có lẽ thế nên khi được vinh dự phò tá nhà vua trở về kinh thành, tướng Trần Quang khải mới không thể đè nén được xúc động và thể hiện sự tự hào, vui sướng cho chiến thắng của nhân dân dù trên thực tế, trận chiến Hàm Tử có trước rồi mới tới trận chiến Chương Dương. Thế nhưng vị tướng tài ba lại nhắc theo thứ tự ngược lại. Đây là những chi tiết hết sức thú vị. Tìm hiểu dòng lịch sử, chúng ta biết rằng ở trận chiến Hàm Tử, Trần Quang Khải là người tham gia hỗ trợ còn Trần Nhật Duật mới là vị tướng chỉ huy chính. Còn trong trận chiến thứ hai, tức là trận chiến Chương Dương thì tướng Trần Quang Khải là người trực tiếp thống lĩnh toàn bộ quân dân chiến đấu một trận chiến khốc liệt nhưng cũng rất vẻ vang mang lại chiến thắng toàn cục cho đất nước ta. Niềm vui chiến thắng cùng hòa nhịp với niềm vui được phò giá nhà vua trở về như khiến sự vui tươi, hãnh diện và tự hào của vị tướng như được nhân đôi. Ông liên tưởng những sự kiện trên theo thời gian từ gần tới xa. Đầu tiên, ông nghĩ ngay tới trận đánh Chương Dương rồi sau đó như ngẫm lại mới nhắc tới trận Hàm Tử. Tất cả những chí khí của quân ta được ông đúc kết trong những chữ như “đoạt sáo” cướp giáo, "cầm hồ” bắt quân Hồ. Chỉ với hai từ nhưng đã thể hiện hết sức rõ ràng những hành động của chúng ta. “Đoạt” là lấy hắn được về phía bên mình qua những cuộc đấu tranh với người khác. Bởi thế “đoạt sáo” không những làm nổi bật hình ảnh dũng cảm chiến đấu của nhân dân ta mà còn thể hiện sự tích cực, chính nghĩa. Chúng ta không đi cướp, chúng ta chỉ đòi lại những gì là của chúng ta mà thôi, không thể để cho kẻ thù lấy đi và chèn ép được. Do đó, bản dịch nghĩa sử dụng từ “cướp giáo" phần nào đã làm mất đi ý nghĩa vốn có của từ ngữ gốc do tác giả sáng tác. Ở Chương Dương, chúng ta đã giành được vũ khí của quân giặc, thì ở trận chiến Hàm Tử, chúng ta đã bắt sống được tướng địch. Mỗi lần đấu tranh chúng ta lại lấy được những lợi phẩm khác nhau, thế nhưng tổng kết lại thì đó lại là thắng lợi hoàn toàn, thắng lợi toàn cục và quân địch phải nhận lấy kết quả thất bại ê chề. Những câu thơ không hề có những hình ảnh đổ máu, chém giết đã làm cho tinh thần chính nghĩa của những câu thơ như thêm phần sâu sắc và cũng là khẳng định lại mục đích chiến đấu của nhân dân ta là bảo vệ bờ cõi chứ không hề đi cướp bóc, gây mất đoàn kết giữa các nước với nhau. Những ý thơ với mạch thơ nhanh, gọn cũng là nét tiêu biểu cho những khúc ca khải hoàn sau bình tu trí lựcVạn cổ thử giang sanHay Thái bình nên gắng sứcNon nước ấy ngàn thuNếu như hai câu đầu của đoạn thơ chỉ là hình ảnh của những trận chiến thắng oanh liệt của dân tộc thì hai câu tiếp theo chính là lời tự nhắc nhở bản thân mình của cả quân và dân tộc chúng ta. Lần đầu tiên mà ý chí của một người đã được nâng lên thành ý chí của nhiều người. Tác giả cho rằng, chiến tranh sử dụng vũ lực chỉ là bất đắc dĩ mà thôi. Còn trau dồi phẩm chất, đạo đức và trí tuệ của toàn dân tộc mới là cái gốc, cái cội nguồn để cả đất nước có chung một tinh thần, ý chí sắt đá mà không một đất nước nào có thể xâm phạm được. Có thể thấy, tướng Trần Quang Khải là một trong những người có ánh nhìn rất sâu xa, biết khi nào nên vận dụng những gì để giúp cho đất nước mãi duy trì được cảnh thái bài thơ trên, ta càng thêm yêu lịch sử của dân tộc với những nét thăng trầm nhưng lại luôn luôn mang ý chí kiên cường, bền bỉ, không chịu nhục trước bất cứ một điều nguy hiểm nào. Đạo lí ấy không chỉ được vận dụng trong chiến tranh ngày xưa mà còn được áp dụng cho tới tận bây

cảm nghĩ bài phó giá về kinh